Vấn đề "Giờ Sinh" trước và sau 1975 - (Chiêm Tinh Học 101.001)

(trích từ status ngày 8/1/2013)

 

[HỎI ĐÁP] Vấn đề "Giờ Sinh" trước và sau 1975 - (Chiêm Tinh Học 101.001)

H: ads ơi cho mình hỏi, mình có tra cứu về bản đồ ngày sinh trên trang http://www.tarot-live.com/ thì thấy khác nhiều với trên trang astro. xin hỏi tại sao lại có sự khác biệt nhiều thế? và trang nào mới chuẩn ? theo mình được biết, tử vi phương đông do cách tính cũng có thể dẫn đến ra các lá số khác nhau trên cùng 1 ngày giờ sinh, chuyện này có xảy ra trong chiêm tinh học không? nhờ ads giải thích giúp mình với. cảm ơn ads 

CCT: Tôi có vào xem trang này và thấy họ có cùng chung vấn đề với nhiều website khác như sau: họ dùng sai múi giờ cho Việt Nam, thay vì múi giờ thứ 7 (thuộc Bangkok, Thái Lan), họ dùng múi giờ cũ là thứ 8 (giờ Bắc Kinh) thuộc miền Bắc trước 1975. Tóm lại, sau 1975, mọi giờ sinh đều dùng múi thứ 7, còn trước 1975, tùy theo bạn ở vùng nào thì cần xác định giờ sinh theo vùng đó. Đã có một bài trên báo Tiền Phong viết chi tiết về các vấn đề múi giờ trước 1975 như sau:

Trước năm 1975, Việt Nam sử dụng 2 múi giờ.  Đất nước chia cắt, múi giờ cũng chênh lệnh.  Trong khi tìm hiểu tư liệu để viết bài về chiến thắng 30-4 lịch sử, không ít phóng viên đau đầu về chuyện giờ giấc.  Chẳng hạn chuyện Bùi Quang Thận cắm cờ trên nóc dinh Độc Lập được xác định là vào lúc 11 giờ 30 ngày 30 -4. Tuy nhiên, những nhân chứng ở dinh Độc Lập khẳng định không thể như thế vì lúc đó xe tăng chưa vào dinh.  Và hàng loạt thời điểm lịch sử trong lúc đó đều được các nhân chứng nêu ra hoàn toàn chênh nhau đến cả tiếng.  Thậm chí cho đến nay, trong các tư liệu sách báo, hồi ký trong và ngoài nước viết về 30-4 cũng tiếp tục... lộn xộn về giờ giấc.

Tại sao vậy?

Câu trả lời là: Khi đất nước bị chia cắt thì giờ giấc hai miền cũng không thống nhất.

Ông Trịnh Tiến Điều, trưởng Ban lịch sử nhà nước cho biết cụ thể như sau: Ngày 1-9 -1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên bố lấy múi giờ 7 làm giờ chính thức (sắc lệnh số 01/SL của Bộ Nội vụ). Từ đó, miền Bắc và miền Trung lấy múi giờ 7.

Sau đó theo quyết định số 121/QĐ-CP ngày 8-8-1967 thì giờ pháp định của VN Dân chủ Cộng hoà là múi giờ 7 quốc tế, kể từ 0 giờ ngày 1-1-1968.

Trong khi đó, năm 1959, chính quyền Sài Gòn ra sắc lệnh số 362-TTP ngày 30-12-1959 quy định bắt đầu từ ngày 1-1-1960 giờ chính thức và pháp định của miền Nam VN nhanh hơn 60 phút đối với múi giờ 7.

Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, đến ngày 13-6-1975, Chính phủ cách mạng lâm thời mới ra quyết định chính thức trở lại múi giờ 7, giờ Sài Gòn được vặn chậm lại 1 giờ.

Đến ngày 14-10-2002, Thủ tướng nước CHXHCNVN ra quyết định số 132/2002/QĐ-TTg "lấy múi giờ thứ 7 theo hệ thống múi giờ quốc tế làm giờ chính thức của VN".

Như vậy, trước năm 1975, ở VN sử dụng hai múi giờ khác nhau ở hai miền Nam, Bắc. Miền Bắc theo múi giờ thứ 7, miền Nam theo múi giờ thứ 8 (nhanh hơn 60 phút) cho đến ngày 13-6-1975 mới thống nhất trở lại theo múi giờ 7 như hiện nay.

[CCT]

* Xem thêm:

- [PHÁP] TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIỜ SINH (ĐIỂM MỌC) VÀ MẶT TRỜI (Chiêm Tinh Học 103.001): cct.tips/cth103001